Hè đến rồi
AQflight cung cấp vé:
Chặng bay: Hồ Chính Minh-Vân Đồn-Hồ Chí Minh
Thời gian: Tháng 6,7,8
Giá siêu rẻ: chỉ từ 690k/vé.
Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2019
Việt Nam Airline
AQflight cung cấp vé của VNA:
Chặng bay Hà Nội - Phú Quốc
Thời gian: Tháng 9, 10
Giá: chỉ 2.500.000đ/khứ hồi, đủ thuế phí
Giờ bay đẹp.
Chặng bay Hà Nội - Phú Quốc
Thời gian: Tháng 9, 10
Giá: chỉ 2.500.000đ/khứ hồi, đủ thuế phí
Giờ bay đẹp.
Lưu ý đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên khi đi máy bay
Người từ đủ 14 tuổi trở lên khi đi máy bay phải có một trong các loại giấy tờ sau:
- Chứng minh thư
- Căn cước công dân
- Hộ chiếu
- Giấy xác nhận nhân thân.
Giấy khai sinh là bản chính, bản sao, bản trích lục.
Bản Photo thì phải sao y chứng thực (Công chứng) trong vòng 6 tháng mới được sử dụng.
Nên có khu vực dành riêng cho trẻ nhỏ ở trên máy bay trong tương lai?
Nhiều người gặp những tình huống giống nhau và tương đối hài ước trên máy bay. Bạn vừa yên vị ở ghế ngồi của mình trên chuyến bay, và một đứa bé đi về phía bạn. Bạn chắp tay và miệng lẩm nhẩm cầu nguyện. "không ngồi ở phía trước tối, không ngồi cạnh tôi, không ngồi phía sau tôi, không ngồi gần tôi, làm ơn, làm ơn, làm ơn!". Thỉnh thoảng mong muốn của bạn thành sự thật, thỉnh thoảng không. Và khi đó, bạn có thể đối diện với một chuyến bay mà có thể nghe tiếng khóc của hành khách nhỏ bé trong toàn bộ hành trình, hoặc là những cú đạp bất thình lình vào ghế ngồi của bạn khi hành khách nhỏ bé đó ngồi phía sau, cũng có khi bạn sẽ nghe tiếng anh, chị hét lên với em của mình khi chúng tranh giành thứ gì đó. Hoặc giả hành khách nhỏ bé đó ngồi phía trước bạn, đứng lên nhìn bạn với ánh mắt trìu mến rồi đột nhiên bôi một thứ gì đó trong mũi lên đỉnh ghế, tại vị trí mà bạn sẽ luôn nhìn thấy trong suốt chuyến bay kể cả khi bạn dùng bữa.
Tất nhiên, có những lúc bạn sẽ bắt gặp những thiên thần nhỏ với những cử chỉ đáng yêu và rất ngoan ngoãn trong vòng tay của bố mẹ trong suốt hành trình bay, làm cho bạn thấy thích thú và tận hưởng chuyến bay của mình. Nhưng quay lại khoảng thời gian khi mà có những điều làm bạn bối rối của những hành khách nhỏ kể trên.
Theo Airfarewatchdog's Annual State of Travel Survey, hơn một nửa (52%) trong số 4000 người được khảo sát đều có ý kiến tương đồng về việc nên có một khu vực giành riêng cho những hành khách là trẻ em (từ 10 tuổi trở xuống) và người chăm sóc đi kèm trên máy bay. Nhưng thật không may không có dữ liệu nào cho biết trong số những người khảo sát trên, bao nhiều người có con và bao nhiêu người không.
Một vài hãng hàng không quốc tế như Malaysia Airlines, Scoot (Singapore), Indigo (Ấn Độ) và AirAsiaX (Malaysia) đã sẵn sàng để làm điều này, các hãng này có khu vực trên máy bay mà những hành khách nhỏ tuổi không được ngồi. (Ví dụ AirAsiaX không cho phép trẻ em ngồi ở 7 hàng ghế đầu tiên của hạng vé phổ thông, và đặt tên cho khu vực này là "vùng yên tĩnh".
Các hãng hàng không của Anh, không ngoại lệ cũng rất hứng thú với việc thiết lập các khu vực giành riêng trên máy bay cho trẻ em như là một lợi thế cạnh tranh cho dịch vụ bay của hãng mình, tuy rằng chưa triển khai trên thực tế.
Nhưng dựa trên các kết quả khảo sát về tâm lý khách đi bay, đây có thể sẽ là xu hướng phổ biến của các hãng hàng không trong tương lai gần. Hãy cùng chờ xem.
Thứ Hai, 27 tháng 5, 2019
How to make applying for job less painful
Theo Priyanka Jain người lãnh đạo xây dựng sản phẩm tại Pymetrics, một công ty kết hợp khoa học thần kinh với việc tuyển dụng thì 75% số người xin việc bằng những cách tuyển dụng truyền thống trong những năm vừa qua nói rằng họ không được nghe bất kỳ phản hồi nào từ những người chủ tuyển dụng và 46% những người này nghỉ việc hoặc sa thải trong năm đầu tiên làm việc.
Lần đầu tiên trong lịch sử, cơ hội công việc nhiều hơn những người thất nghiệp, nhưng việc này chỉ ra cách thức tuyển dụng thật sự đang có vấn đề. Priyanka Jain tin rằng cái mảnh giấy-sơ yếu lý lịch là trung tâm của vấn đề. Sơ yếu lý lịch có thể chỉ ra thành tựu của một người trong quá khứ nhưng không đánh giá được tiềm năng của họ, đặc biệt trong một nền kinh tế thay đổi chóng mặt như hiện nay, trong tương lại công việc đỏi hỏi một ứng viên phải có những kỹ năng mà không ai có.
Vậy giải pháp là gì? Jain nói những bài kiểm tra đa năng thực hiện bởi những thuật toán trí tuệ nhân tạo do Pymetrics đang phát triển có thể giúp những nhà tuyển dụng đo được sức mạnh trí tuệ, mức độ chu đáo và các đặc điểm khác của ứng cử viên. Từ đó tìm ra những điểm mạnh và điểm yếu của ứng cử viên, qua đó xác định ứng viên xin việc có thể phù hợp với loại công việc nào.
Thứ Bảy, 25 tháng 5, 2019
Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
thông quangày 17 tháng 10 năm 2018 và được công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA
ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số 06/2017/DS-GĐT ngày 27-3-2017 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “tranh chấp thừa kế tài sản và chia
tài sản chung” ở Hà Nội giữa nguyên đơn là ông Cấn Xuân V, bà Cấn Thị N1, bà
Cấn Thị T1, bà Cấn Thị H, ông Cấn Xuân T, bà Cấn Thị N2, bà Cấn Thị M1. Người
đại diện cho các đồng nguyên đơn là bà Cấn Thị N2 và bị đơn là cụ Nguyễn Thị L,
ông Cấn Anh C. Người đại diện cho các đồng bị đơn theo ủy quyền là ông Lê Hồng
L. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 07 người.
Vị trí nội dung án
lệ:
Đoạn 5, 6, 7 phần “Nhận định của Tòa án”.
Khái quát nội dung
án lệ:
- Tình huống án lệ:
Người để lại di sản thừa kế là bất động sản chết trước ngày công bố
Pháp lệnh Thừa kế ngày 30-8-1990. Tại thời điểm Tòa án xét xử sơ thẩm, Bộ luật
Dân sự số 91/2015/QH13 đang có hiệu lực pháp luật.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, phải xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu yêu cầu
chia di sản thừa kế là ngày công bố Pháp lệnh Thừa kế ngày 30-8-1990. Thời hiệu
yêu cầu chia di sản thừa kế được xác định theo quy định của Bộ luật Dân sự số
91/2015/QH13.
Quy định của pháp
luật liên quan đến án lệ:
- Khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990.
Từ khóa của án lệ:
“Chia di sản thừa kế”; “Thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế”; “Thời
điểm bắt đầu tính thời hiệu”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện
ngày 02-11-2010 và quá trình tố tụng, đại diện các nguyên đơn là bà Cấn Thị N2
trình bày: Cụ Cấn Văn K và cụ Hoàng Thị T sinh được 8 người con gồm các ông, bà:
Cấn Xuân V, Cấn Thị N1, Cấn Thị N2, Cấn Thị M1, Cấn Thị T1, Cấn Thị H, Cấn Xuân
T, Cấn Văn S (chết năm 2008) có vợ là bà Nguyễn Thị M và hai con là Cấn Thùy L
và Cấn Hoàng K.
Năm 1972 cụ T chết. Năm 1973, cụ K kết hôn với cụ Nguyễn Thị L sinh
được 4 người con là các ông, bà: Cấn Thị C, Cấn Thị M2, Cấn Anh C và Cấn Thị
T2.
Sinh thời cụ K, cụ T tạo lập được 612m2 đất, trên đất có 2
căn nhà 3 gian, tọa lạc tại thôn T, xã P, huyện Th, thành phố Hà Nội, được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2002 đứng tên hộ cụ Cấn Văn K. Sau khi cụ
T chết, toàn bộ nhà đất nêu trên do cụ K và cụ L quản lý. Năm 2002 cụ K chết,
khối tài sản này do cụ L và ông Cấn Anh C quản lý.
Cụ K và cụ T chết không để lại di chúc. Nay các đồng nguyên đơn là con
cụ K với cụ T khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung của cụ T và chia di sản thừa
kế của cụ K theo quy định của pháp luật, trong đó bà N1, bà N2, bà M1, bà T1,
bà H, ông T, bà C và bà Nguyễn Thị M (vợ ông S) đề nghị kỷ phần ông, bà được
hưởng giao lại cho ông V làm nơi thờ cúng cha mẹ, tổ tiên.
Bị đơn là cụ Nguyễn
Thị L và ông Cấn Anh C trình bày:Vềquan hệ huyết thống
và di sản thừa kế như nguyên đơn trình bày là đúng. Cụ L thừa nhận trước khi
kết hôn với nhau, cụ K đã có các tài sản là 3 gian nhà cấp 4 lợp rạ và 3 gian
bếp trên diện tích đất 612m2. Quá trình quản lý, sử dụng, vợ chồng
cụ có cải tạo và xây dựng lại một số công trình phụ, tường bao như hiện nay.
Năm 2002, Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ cụ Cấn Văn
K. Thời điểm này hộ cụ K có 06 người gồm: Cụ K, cụ L, ông T, bà M2, bà T2 và
ông C. Nay các nguyên đơn khởi kiện, cụ L và ông C đề nghị giải quyết theo quy
định của pháp luật.
Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan:
Bà Cấn Thị C, bà Cấn Thị T2, bà Cấn Thị M2, bà Nguyễn Thị M, bà Lê Thị
H thừa nhận quan hệ huyết thống như nguyên đơn, bị đơn khai và đề nghị giải
quyết theo pháp luật. Nếu yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận, kỷ phần của bà
Nguyễn Thị M, bà C giao lại cho ông V; kỷ phần của bà M2 để lại cho ông C; bà
T2 xin được nhận kỷ phần của mình.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 30/2012/DS-ST ngày 20-7-2012, Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội quyết định:
Chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông Cấn Xuân V, bà Cấn Thị N1, bà Cấn Thị T1, bà Cấn Thị H, ông
Cấn Xuân T, bà Cấn Thị N2, bà Cấn Thị M1:
Cụ thể: Xác nhận
khối tài chung gồm nhà cấp 4, nhà thờ, bếp, sân gạch, tường bao, lán lợp xi
măng, nhà tắm, bình inox, tường bao trên diện tích đất 612m3 tại
thôn T, xã P, huyện Th, thành phố Hà Nội có trị giá 1.565.504.366 đồng trong đó
phần tài sản của cụ K + cụ T có trị giá
1.536.331.972 đồng, phần tài sản của cụ K+ cụ L phát triển có trị giá
21.338.977 đồng, tài sản vợ chồng ông C, bà H phát triển có trị giá 7.833.417
đồng.
Cụ T chết năm 1972,
chia tài sản chung của cụ T cho các con là ông V, bà N2, bà T1, bà H, ông T, bà
N1, bà M1 và ông S mỗi người được hưởng 96.020.748 đồng, ông S đã chết nên phần
của ông S do vợ là bà Nguyễn Thị M và 02 con là cháu L và cháu K hưởng.
Cụ K chết năm 2002
hàng thừa kế thứ nhất của cụ K là ông V, bà N2, bà T, bà H, ông T, bà N1, bà M1
và ông S đã chết nên phần ông S do vợ ông S là bà Nguyễn Thị M và hai con là
cháu L và cháu K hưởng, cụ L, ông C, bà C, bà M2, bà T2 mỗi người được hưởng
30.365.575 đồng.
Chấp nhận sự tự
nguyện của bà N2, bà N1, bà T1, bà H, ông T, bà C, bà M1 và bà Nguyễn Thị M vợ
ông S cho ông V tài sản.
Chấp nhận sự tự
nguyện của bà M2 cho ông C tài sản.
Chia hiện vật cụ
thể:
Giao ông Cấn Xuân V
sở hữu 03 gian nhà ngoài 31,4m2= 4.435.233 đồng, sân gạch = 1.456.475 đồng, tường bao xung quanh 27,63m2 = 810.488
đồng, tường bao nhà tắm hết giá trị sử dụng, tường gạch 242.804 đồng, tường hoa
trước nhà thờ hết giá trị sử dụng, giếng khoan hết giá trị sử dụng, nhà cấp 4
(nhà thờ) và hiên trước nhà = 5.678.736 đồng, bếp = 3.696.503 đồng, nhà
tắm 4.114.332 đồng; bình nước inox x 2m3 = 2.000.000 đồng, 02 bể
nước hết giá trị sử dụng, mái tôn lợp trên sân gạch = 1.719.085 đồng, nhà chăn
nuôi hết giá trị sử dụng, cổng hết giá trị sử dụng, cây cối: 01 cây na, 01 cây
xoài, 01 cây bưởi = 470.000 đồng gắn với quyền sử dụng 367,1m2 đất
= 917.750.000 đồng. Tổng cộng = 942.656.000 đồng, phần tài sản được hưởng
1.041.456.159 đồng, ông V còn được nhận tiền tài sản chênh lệch ở cụ L là
99.032.460 đồng. Phần tài sản ông V được hưởng 1.041.456.000đ (có sơ đồ kèm
theo).
Giao cụ Nguyễn Thị
L, vợ chồng ông Cấn Anh C, bà Cấn Thị M2, bà Cấn Thị T2 sở hữu 01 gian buồng
13.3m2 = 1.896.739 đồng, tường bao = 1.934.843
đồng, tường gạch = 666.841 đồng, sân gạch = 400.000 đồng, lán lợp xi măng
=1.462.287 đồng, cây cối = 4.470.000 đồng gắn liền với việc sử dụng 244,9m2
đất = 612.250.000 đồng, tổng trị giá = 623.080.710 đồng, phần tài sản được
hưởng 524.048.198 đồng. Cụ L và ông C phải thanh toán cho bà T2 30,365.575 đồng
và phải thanh toán chênh lệch tài sản cho ông V là 99.032.503 đồng, cụ L phải
tự mở cửa nhà và tự mở lối đi trên đất của mình.
Vì kèo gian buồng
giữa ông V và mẹ con cụ L là vì kèo chung, ai dỡ nhà trước phải để lại cho phía
bên kia.
Ngoài ra, Tòa án
cấp sơ thẩm còn quyết định về phần án phí.
Ngày 13-8-2012, cụ L và ông C kháng cáo.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 106/2013/DS-PT ngày 17-6-2013, Tòa phúc
thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:
Chấp nhận kháng cáo
của các bị đơn, sửa bản án sơ thẩm,
Chấp nhận một phần
yêu cầu khởi kiện của ông Cấn Xuân V, bà Cấn Thị N1, bà Cấn Thị T1, bà Cấn Thị
H, ông Cấn Xuân T, bà Cấn Thị N2, bà Cấn Thị M1.
Cụ thể: Xác nhận
khối tài sản chung gồm nhà cấp 4, nhà thờ, bếp, sân gạch, tường bao, lán lợp xi
măng, nhà tắm, bình inox, tường bao trên diện tích đất 612m2 tại
thôn T, xã P, huyện Th, Hà Nội có trị giá
1.565.504.366 đồng, trong đó phần tài sản của cụ K cụ T có trị giá
1.536.331.972 đồng, phần tài sản của cụ K và cụ L phát triển có trị giá
21.338.977 đồng, tài sản của vợ chồng ông C, bà H phát triển có trị giá
7.833.417 đồng.
Cụ T chết năm 1972,
thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế đã hết. Có đồng thừa kế không thống nhất
xác định di sản của cụ T để lại là tài sản chung chưa chia, nên không chấp nhận
yêu cầu của các nguyên đơn về việc chia di sản của cụ T để lại như chia tài sản
chung cho 8 người con của cụ T. Do đã hết thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế,
nên những người đồng thừa kế đang quản lý di sản là cụ Nguyễn Thị L và ông Cấn
Anh C được tiếp tục quản lý sử dụng và sở hữu.
Cụ K chết năm 2002,
hàng thừa kế thứ nhất của cụ K có 13 người gồm: cụ L, ông V, bà N2, bà T1, bà
H, ông T, bà N1, bà M1, ông S đã chết nên phần ông S do vợ ông S là bà Nguyễn
Thị M và hai con là cháu L, cháu K hưởng, ông C, bà C, bà M2 mỗi người được
hưởng một phần bằng nhau quy thành tiền là 30.365.575 đồng.
Chấp nhận sự tự
nguyện của bà N2, bà N1, bà T1, bà H, ông T, bà C, bà M1 và bà Nguyễn Thị M (vợ
ông S) cho ông V tài sản.
Chấp nhận sự tự
nguyện của bà M2 cho ông C tài sản.
Chia hiện vật cụ thể:
Giao cho ông Cấn
Xuân V phần diện tích đất có nhà thờ được chia bởi một đường thẳng cắt ngang
thửa đất, trùng với mép ngoài đầu hồi nhà chính (có sơ đồ kèm theo). Phần diện
tích ông V được chia (bên có nhà thờ) có tổng diện tích là 218,2m2
(trong đó 100m2 đất ở và 118,2m2 đất vườn, có thời hạn sử
dụng 50 năm), thành tiền là 545.500.000 đồng và các tài sản trên đất gồm: nhà
thờ và diện tích hiên trước nhà thờ trị giá là: 5.300.888 đồng + 377.848 đồng = 5.678.736 đồng; bếp trị giá là: 3.696.503 đồng;
nhà tắm trị giá là 4.114.332 đồng; téc Inox dung tích 2m3 trị giá là
2.000.000 đồng; 02 bể nước hết giá trị sử dụng. Tổng cộng trị giá tài sản trên
đất là 15.489.571 đồng. Tổng cộng trị giá phần tài sản trên đất và đất ông V
được chia là: 560.989.571 đồng.
Ông Cấn Xuân V
không phải thanh toán phần tài sản chênh lệch trị giá 287.699.396 đồng cho cụ L
và ông C.
Giao toàn bộ diện
tích 393,8m2 đất (trong đó 200m2 đất ở có thời hạn sử
dụng lâu dài và193,8m2 đất vườn, có thời hạn sử dụng 50 năm), và
toàn bộ tài sản trên đất còn lại cho cụ Nguyễn Thị L và ông Cấn Anh C sở hữu và
sử dụng. Cụ L và ông C có trách nhiệm thanh toán cho bà Cấn Thị T2 trị giá phần
thừa kế được hưởng là 30.365.575 đồng. Cụ Nguyễn Thị L và ông Cấn Anh C phải tự
mở lối đi mới ra ngõ chung của xóm.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về phần án phí.
Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 05-4-2014, bà Cấn Thị N2 đại diện các
nguyên đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự
phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định số 73/2016/KN-DS ngày 15-6-2016, Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 106/2013/DS-PT ngày 17-6-2013
của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội; đề nghị Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ toàn bộ Bản án dân sự
phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 30/2012/DS-ST ngày 20-7-2012
của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao
nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Cụ Cấn Văn K và cụ Hoàng Thị T có 08 người con gồm các ông bà: Cấn
Xuân V, Cấn Thị N1, Cấn Thị T1, Cấn Thị H, Cấn Xuân T, Cấn Thị N2, Cấn Thị M1,
Cấn Văn S (chết năm 2008, ông S có vợ là bà Nguyễn Thị M và hai con là Cấn Thùy
L, Cấn Hoàng K).
[2] Vợ chồng cụ K, cụ T tạo lập được khối tài sản gồm nhà cấp 4, bếp,
nhà tắm và các công trình khác, cây cối trên diện tích đất 612m2,
thửa số 120, tờ bản đồ số 11, tại thôn T, xã P, huyện Th, thành phố Hà Nội. Năm
1972 cụ T chết. Năm 1973 cụ K kết hôn với cụ Nguyễn Thị L và có 04 người con
gồm các ông, bà: Cấn Thị C, Cấn Thị M2, Cấn Thị T2 và Cấn Anh C. Năm 2002 phần
đất trên được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ cụ Cấn Văn K.
Cuối năm 2002 cụ K chết, khối tài sản do cụ L và ông Cấn Anh C quản lý, sử
dụng. Các đồng nguyên đơn là các con của cụ K với cụ T yêu cầu chia tài sản
chung của mẹ là cụ T và chia di sản thừa kế của cụ K để lại theo quy định của
pháp luật. Như vậy, hàng thừa kế thứ nhất của cụ T có 09 người gồm 08 người con
và chồng là cụ K. Năm 2002, cụ K chết, phần di sản của cụ K được hưởng từ di
sản của cụ T được chuyển tiếp cho cụ L và các con chung của cụ K và cụ L được
hưởng.
[3] Tại thời điểm các đồng nguyên đơn khởi kiện (tháng 11-2010) cụ K và
ông Cấn Văn S đã chết, các thừa kế của cụ K và ông S được hưởng thừa kế chuyển
tiếp đối với di sản mà cụ K, ông S được hưởng. Tòa án cấp sơ thẩm xác định tại
thời điểm các đương sự khởi kiện (tháng 11-2010) là đã hết thời hiệu để chia
thừa kế của cụ T, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xác định di sản của cụ T để lại là
tài sản chung chưa chia và tuyên chia cho 08 người con của cụ T là không đúng
theo quy định tại điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số
02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
vì cụ L, ông C (con cụ K) không thừa nhận tài sản đang tranh chấp là di sản của
cụ T chưa chia.
[4] Tòa án cấp phúc thẩm xác định thời hiệu khởi kiện về thừa kế của cụ
T đã hết và không chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn về việc chia tài sản
chung đối với phần di sản của cụ T là đúng (theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục
2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao), nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại tuyên cho các
đồng thừa kế đang quản lý các di sản của cụ T là cụ L và ông C được tiếp tục
quản lý, sử dụng và sở hữu là không đúng.
[5] Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm
2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2017), thì thời hiệu để người thừa kế
yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế.
[6] Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015,
đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật Dân sự này có hiệu
lực, thì thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này.
[7] Như vậy kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành,
Tòa án áp dụng quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời
hiệu đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày 01-01-2017. Căn cứ quy định tại
khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990 và Bộ luật Dân sự năm 2015, trong
trường hợp này thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các đồng thừa kế
vẫn còn theo quy định của pháp luật.
[8] Mặt khác, nguyện vọng của các nguyên đơn thể hiện tại biên bản lấy
lời khai ngày 22-12-2010 của bà Cấn Thị N2 (BL63), bà Cấn Thị N1 (BL69), bà Cấn
Thị T1 (BL75), bà Cấn Thị H (BL78), bà Cấn Thị M1 (BL61) yêu cầu Tòa án chia di
sản của bố mẹ để lại theo quy định của pháp luật, bản thân các bà là con gái đã
đi lấy chồng, nên phần di sản các bà được chia, các bà giao lại cho ông V để ông
V làm nơi thờ cúng tổ tiên; ông Cấn Xuân T
thể hiện tại biên bản lấy lời khai ngày 22-10-2010 (BL73) đề nghị Tòa
án chia di sản của cha mẹ theo quy định của pháp luật để anh em ông làm nơi thờ
cúng cha mẹ, tổ tiên; bà Nguyễn Thị M (BL65) yêu cầu phần di sản chồng bà được
chia, mẹ con bà xin giao lại cho ông V để ông V làm nơi thờ cúng tổ tiên. Tuy
nhiên, quá trình giải quyết, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm lại tuyên công nhận
sự tự nguyện của các nguyên đơn cho ông V tài sản là không đúng ý chí của các
đương sự.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ vào khoản 2 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều 345 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015;
Chấp nhận Kháng nghị số 73/2016/KN-DS ngày 15-6-2016 của Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 106/2013/DS-PT ngày
17-6-2013 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội.
Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy toàn bộ Bản án dân
sự sơ thẩm số 30/2012/DS-ST ngày 20-7-2012 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
về vụ án tranh chấp thừa kế tài sản và chia tài sản chung giữa nguyên đơn là
ông Cấn Xuân V, bà Cấn Thị N1, bà Cấn Thị T1, bà Cấn Thị H, ông Cấn Xuân T, bà
Cấn Thị N2, bà Cấn Thị M1 với bị đơn là cụ Nguyễn Thị L, ông Cấn Anh C và những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (07 người).
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết sơ
thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“[5] Tuy nhiên,
theo quy định tại khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực thi
hành từ ngày 01-01-2017), thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là
30 năm đối với bất động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế.
[6] Theo quy định
tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, đối với giao dịch dân sự
được xác lập trước ngày Bộ luật Dân sự này có hiệu lực, thì thời hiệu được áp
dụng theo quy định của Bộ luật này.
[7] Như vậy kể từ
ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định tại
Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp mở
thừa kế trước ngày 01-01-2017. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh
thừa kế ngày 30-8-1990 và Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp này thời
hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các đồng thừa kế vẫn còn theo quy định
của pháp luật.”
Án lệ số 25/2018/AL về không phải chịu phạt cọc vì lý do khách quan
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và được công bố theo Quyết
định số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm
số 79/2012/DS-GĐT ngày 23-02-2012 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ
án dân sự “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” tại Thành phố Hồ Chí Minh giữa nguyên
đơn là ông Phan Thanh L với bị đơn là bà Trương Hồng Ngọc H; người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Lại Quang T.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 1, 3, 4 phần “Nhận
định của Tòa án”.
Khái quát nội dung án lệ:
-
Tình huống án lệ:
Hợp đồng đặt cọc để bảo
đảm giao kết hợp đồng mua bán nhà có thỏa thuận trong một thời hạn nhất định
bên nhận đặt cọc phải hoàn tất các thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà, nếu vi phạm thì phải chịu phạt cọc.
Hết thời hạn theo thỏa
thuận, bên nhận đặt cọc chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà do
nguyên nhân từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
-
Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, phải xác
định việc bên nhận đặt cọc không thể thực hiện đúng cam kết là do khách quan và
bên nhận đặt cọc không phải chịu phạt cọc.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Điều 358 Bộ luật Dân sự
năm 2005 (tương ứng với Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Từ khóa của án lệ:
“Hợp đồng đặt cọc”; “Hợp
đồng mua bán nhà”; “Phạt cọc”; “Giao kết hợp đồng”; “Lý do khách quan”.
NỘI
DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày
20 tháng 7 năm 2009, nguyên đơn ông Phan Thanh L trình bày:
Ngày 12-5-2009, bà Trương
Hồng Ngọc H thỏa thuận bán cho ông Phan Thanh L căn nhà số 1222C (số mới là
25/2) đường 43, phường T, quận H, Thành phố Hồ Chí Minh do bà H đứng tên mua
đấu giá của Cơ quan thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh theo quyết định
giao tài sản số 786/QĐ-THÁ ngày 02-3-2009. Sau khi thỏa thuận, ông L đặt cọc
cho bà H 2.000.000.000 đồng. Tại Điều 5 của hợp đồng đặt cọc, các bên thỏa
thuận kể từ ngày ký hợp đồng, bà H phải hoàn tất các thủ tục để được cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu đối với căn nhà nêu trên, sau đó sẽ ký hợp đồng mua bán
có công chứng; nếu vi phạm thời hạn nêu trên, bà H phải chịu phạt số tiền tương
đương với tiền cọc là 2.000.000.000 đồng. Đến hạn ngày 12-6-2009, bà H không
thực hiện theo thỏa thuận, nên các bên không thể thực hiện theo hợp đồng. Ngày
01-7-2009, bà H gửi thư yêu cầu ông L gia hạn 60 ngày. Ngày 07-7-2009, ông L
gửi thư trả lời không đồng ý cho bà H gia hạn và yêu cầu bà H trả lại tiền cọc
cùng với tiền phạt cọc như đã thỏa thuận. Sau 05 tháng vi phạm hợp đồng, bà H
vẫn không thực hiện đúng cam kết, ông L khởi kiện yêu cầu bà H phải hoàn trả
tiền cọc và phạt cọc, tổng cộng 4.000.000.000 đồng.
Bị đơn bà Trương Hồng
Ngọc H trình bày:
Bà H thừa nhận có thỏa
thuận đặt cọc để bán căn nhà nêu trên cho ông L như ông L đã trình bày. Sau khi
nhận đặt cọc, bà H đã cố gắng hoàn tất thủ tục để được cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà trong thời hạn 30 ngày như đã thỏa thuận, nhưng do trở ngại
khách quan, không thực hiện được. Bà thừa nhận đã vi phạm cam kết với ông L, bà
đồng ý trả lại tiền cọc và tiền lãi suất theo quy định, không đồng ý phạt cọc.
Người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan ông Lại Quang T trình bày:
Ông T sống chung với bà H
từ năm 1997 đến nay, không đăng ký kết hôn. Căn nhà trên là tài sản chung của
ông T và bà H, ông thừa nhận đã cùng bà H nhận tiền đặt cọc của ông L. Ông đồng
ý trả lại tiền cọc và tiền lãi cho ông L theo quy định của pháp luật, chứ không
đồng ý phạt cọc như yêu cầu của ông L.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm
số 344/2009/DS-ST ngày 11-11-2009, Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ
Chí Minh quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Thanh L có
ông Dương Nguyễn Y L đại diện.
Buộc bà Trương Hồng Ngọc H trả cho ông Phan Thanh L
4.000.000.000 đồng ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ
thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 18-11-2009, bà
Trương Hồng Ngọc H kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm.
Ngày 19-11-2009, ông Lại
Quang T kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm.
Tại bản án dân sự phúc
thẩm số 522/2010/DS-PT ngày 06-5-2010, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
quyết định:
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 344/DS-ST ngàv
11-11-2009 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chấp nhận yêu cầu của ông Phan Thanh L.
Buộc bà Trương Hồng Ngọc H trả cho ông Phan Thanh L
2.000.000.000 đồng tiền cọc và 2.000.000.000 đồng tiền phạt cọc. Tổng cộng
4.000.000.000 đồng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời số 495/2010/QĐ-BPKCTT ngày 04-5-2010 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh, về việc cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với nhà đất tại số 25/2
đường 43, phường T, quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc
thẩm còn quyết định về án phí.
Ngày 23-6-2010, bà Trương
Hồng Ngọc H có đơn khiếu nại với nội dung không đồng ý bồi thường tiền cọc, vì
cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc không thực hiện được thỏa thuận đúng thời hạn
là do yếu tố khách quan, cụ thể là do cơ quan thi hành án chậm sang tên sở hữu
nhà cho bà H, nên bà H không thể chuyển tên cho ông L.
Tại Quyết định số
688/2011/KN-DS ngày 18-11-2011, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản
án phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm, đề nghị Tòa Dân sự Tòa án
nhân dân tối cao xét xử hủy bản án phúc thẩm nói trên và hủy Bản án dân sự sơ
thẩm số 344/2009/DS-ST ngày 11-11-2009 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận,
Thành phố Hồ Chí Minh, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, thành phố
Hô Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, đại diện
Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao, đề nghị Hội đồng xét xử hủy Bản án dân sự phúc thẩm số
522/2010/DS-PT ngày 06-5-2010 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và hủy
bản án dân sự sơ thẩm số 344/2009/DS-ST ngày 11-11-2009 của Tòa án nhân dân
quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân
quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của
pháp luật.
NHẬN
ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Ngày 12-5-2009, ông
Phan Thanh L đặt cọc 2.000.000.000 đồng cho bà Trương Hồng Ngọc H để mua căn
nhà số 1222C (số mới là 25/2) đường 43, phường T, quận H, Thành phố Hồ Chí Minh
do bà H đứng tên mua đấu giá của Cơ quan thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí
Minh, theo quyết định giao tài sản số 786/QĐ-THÁ ngày 02-3-2009. Tại Điều 5 của
hợp đồng đặt cọc có nêu, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ký hợp đồng, bà H
phải hoàn tất các thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với căn
nhà nêu trên, sau đó sẽ ký hợp đồng mua bán có công chứng; nếu vi phạm thời hạn
nêu trên, bà H chịu phạt số tiền tương đương với tiền cọc là 2.000.000.000
đồng. Hết thời hạn trên, bà H không thực hiện đúng cam kết, nên ông L khởi kiện
yêu cầu bà H trả lại tiền cọc 2.000.000.000 đồng và phạt cọc 2.000.000.000
đồng.
[2] Bà Trương Hồng Ngọc H
không đồng ý phạt cọc, chỉ đồng ý trả tiền cọc cùng với lãi suất theo mức lãi
suất của ngân hàng, vì cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc bà không thực hiện
được đúng cam kết là do cơ quan thi hành án dân sự chậm sang tên cho bà.
[3] Xét yêu cầu đòi phạt
tiền đặt cọc của ông Phan Thanh L thấy rằng, tại thời điểm ông L đặt cọc
2.000.000.000 đồng cho bà Trương Hồng Ngọc H, bà H đã nhận nhà nhưng chưa làm
thủ tục sang tên do cơ quan thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh đang quản
lý toàn bộ giấy tờ có liên quan đến căn nhà. Do đó, việc bà H không đứng tên
quyền sở hữu nhà trong vòng 30 ngày theo như thỏa thuận ban đầu cần phải xem
xét do lỗi chủ quan của bà H không liên hệ với cơ quan thi hành án dân sự để
làm thủ tục sang tên hay do lỗi khách quan của cơ quan thi hành án dân sự chậm
sang tên cho bà H.
[4] Sau khi xét xử phúc
thẩm, kèm theo đơn khiếu nại, bà H còn nộp cho Tòa án nhân dân tối cao Công văn
số 4362/THA ngày 05 tháng 6 năm 2009 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ
Chí Minh. Nội dung của công văn giải thích lý do người mua trúng đấu giá là bà
H vẫn chưa hoàn tất thủ tục trước bạ sang tên là do có khiếu nại của ông Nguyễn
Tấn L1 yêu cầu bà Trầm Thị Kim P phải thanh toán 38 lượng vàng SJC còn nợ khi
ông L1 mua căn nhà trên. Do đó, khi xét xử lại Tòa án cần phải xác minh thu
thập bản chính công văn 4362/THA ngày 05-6-2009 của Cục thi hành án dân sự
Thành phố Hồ Chí Minh và quy trình chuyển quyền sở hữu cho người mua trúng đấu
giá của cơ quan thi hành án dân sự. Nếu có căn cứ xác định cơ quan thi hành án
dân sự chậm trễ trong việc chuyển tên quyền sở hữu cho bà H thì lỗi dẫn tới
việc bà H không thể thực hiện đúng cam kết với ông L thuộc về khách quan, và bà
H không phải chịu phạt tiền cọc. Nếu có căn cứ xác định do bà H chậm trễ hoàn
tất các thủ tục để được sang tên quyền sở hữu thì lỗi hoàn toàn thuộc về bà H,
và bà H mới phải chịu phạt tiền cọc.
[5] Tòa án cấp sơ thẩm và
Tòa án cấp phúc thẩm chưa xác minh, làm rõ những vấn đề trên, mà đã chấp nhận
ngay yêu cầu khởi kiện của ông Phan Thanh L để buộc bà Trương Hồng Ngọc H chịu
phạt cọc với số tiền 2.000.000.000 đồng là chưa đủ căn cứ.
Bởi các lẽ trên, căn cứ
vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297 Bộ luật Tố tụng dân sự;
QUYẾT
ĐỊNH:
Hủy Bản án dân sự phúc
thẩm số 522/2010/DS-PT ngày 06-5-2010 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh, và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 344/DS-ST ngày 11-11-2009 của Tòa án nhân
dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh, về vụ án “Tranh chấp hợp đồng đặt
cọc” giữa nguyên đơn là ông Phan Thanh L với bị đơn là bà Trương Hồng Ngọc H;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Lại Quang T.
Giao hồ sơ cho Tòa án
nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy
định của pháp luật.
NỘI
DUNG ÁN LỆ
“[1]…Tại Điều 5 của hợp đồng đặt cọc có nêu, trong
thời hạn 30 ngày kể từ ngày ký hợp đồng, bà H phải hoàn tất các thủ tục để được
cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với căn nhà nêu trên, sau đó sẽ ký hợp
đồng mua bán có công chứng; nếu vi phạm thời hạn nêu trên, bà H chịu phạt số
tiền tương đương với tiền cọc là 2.000.000.000 đồng. Hết thời hạn trên, bà H
không thực hiện đúng cam kết, nên ông L khởi kiện yêu cầu bà H trả lại tiền cọc
2.000.000.000 đồng và phạt cọc 2.000.000.000 đồng.
[3]…tại thời điểm ông L đặt cọc 2.000.000.000 đồng
cho bà Trương Hồng Ngọc H, bà H đã nhận nhà nhưng chưa làm thủ tục sang tên do
cơ quan thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh đang quản lý toàn bộ giấy tờ
có liên quan đến căn nhà…
[4]…Nếu có căn cứ xác định cơ quan thi hành án dân
sự chậm trễ trong việc chuyển tên quyền sở hữu cho bà H thì lỗi dẫn tới việc bà
H không thể thực hiện đúng cam kết với ông L thuộc về khách quan, và bà H không
phải chịu phạt tiền cọc…”
Án lệ số 24/2018/AL về di sản thừa kế chuyển thành tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân
Được
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông quangày 17 tháng 10 năm 2018
và được công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn
án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số 27/2015/DS-GĐT ngày
16-10-2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án dân sự
“Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là
bà Phạm Thị H, bà Phạm Thị H1, bà Phạm Thị H2 với bị đơn là ông Phạm Văn H3;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 12 người.
Vị
trí nội dung án lệ:
Đoạn 4 phần “Nhận định của Tòa án”.
Khái
quát nội dung án lệ:
- Tình huống án lệ:
Nhà, đất là tài sản chung của vợ chồng mà một người
chết trước. Người còn lại và các thừa kế của người chết trước đã thống nhất
phân chia nhà, đất. Thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ
thừa kế nào.
Việc phân chia nhà, đất đã được thực hiện trên thực
tế và đã được điều chỉnh trên sổ sách giấy tờ về đất đai. Sau khi người còn lại
chết mới phát sinh tranh chấp.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, phải xác định nhà, đất đó đã chuyển
thành quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp của các cá nhân. Những người này chỉ
có quyền khởi kiện đòi lại nhà, đất được chia đang bị người khác chiếm hữu, sử
dụng bất hợp pháp mà không có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế là nhà, đất.
Quy
định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Các điều 219, 223, 226 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với các điều 213, 218, 220 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Từ khóa của án lệ:
“Di sản thừa kế”; “Tài
sản chung của vợ chồng”; “Phân chia nhà đất trên thực tế”.
NỘI
DUNG VỤ ÁN:
Tại “Đơn khởi kiện đòi đất” đề ngày 30-6-2004 và
các đơn yêu cầu, lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Phạm Thị H,
Phạm Thị H1, Phạm Thị H2 trình bày:
Cha, mẹ các bà là cụ Phạm Văn H (chết năm 1978) và
cụ Ngô Thị V (chết ngày 21-8-1994) có bảy con là ông Phạm Văn H3, ông Phạm Văn
Đ (chết năm 1998), ông Phạm Văn T, ông Phạm Văn Q (chết năm 2000) và các bà là
Phạm Thị H, Phạm Thị H1, Phạm Thị H2. Sinh thời các cụ có gian nhà, gian bếp
trên khoảng 464m2 đất tại thị trấn Q, tỉnh Hà Tây (cũ, nay thuộc
thành phố Hà Nội).
Năm 1991, cụ V đứng ra chia mảnh đất trên cho bảy con:
Bốn con trai mỗi người 1 phần, còn 1 phần (có chiều ngang 3m giáp đường, diện
tích 44,4m2) chia chung cho ba con gái (là các nguyên đơn). Ngay sau
khi được chia, ông Đ đã bán lấy tiền vào tỉnh Sông Bé (cũ) sinh sống; ông T,
ông Q đã nhận đất xây dựng nhà ở. Phần các bà được chia nằm liền với phần đất
cụ V chia cho ông H3 (có chiều ngang 4m giáp đường). Riêng ông H3 lúc đó đã có
nhà đất ở nơi khác nên ông cũng chưa sử dụng phần đất được chia. Thời điểm này
các bà đang ở miền Nam nên ông H3 trông nom cả phần đất các bà được cụ V chia
và đất của ông được chia, tổng diện tích hai phần là 110m2 (chiều
ngang 7m). Nhiều năm sau đó ông H3 vẫn thừa nhận là đất của các bà được chia
ông trông nom.
Năm 2002, khi các bà về sang cát cho mẹ, ông H3 vẫn
đồng ý khi nào các bà đủ điều kiện thì về nhận đất xây nhà ở. Nhưng đến năm
2004, khi ba chị em có nhu cầu xây dựng nhà trên đất này thì ông H3 lại không
thừa nhận là đất của ba chị em và ông đã chia đất cho con của ông là anh Phạm
Văn L và chị Phạm Thị T, không trả đất cho các bà.
Nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc ông H3 trả lại phần
đất các bà đã được mẹ và anh chị em trong nhà thống nhất chia từ 1991; có lúc
yêu cầu Tòa án giải quyết cho 3 chị em được hưởng thừa kế theo pháp luật bằng
hiện vật là 44,4m2 đất. Khi Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý
sơ thẩm lại vụ án vào năm 2010, các nguyên đơn có yêu cầu Tòa án giải quyết
chia thừa kế di sản của các cụ là 115m2 (thực đo 110m2)
đang do ông H3 quản lý.
Bị đơn là ông Phạm Văn H3 và lời khai người đại
diện theo ủy quyền là chị Phạm Thị T trình bày:
Ban đầu ông H3 có lời khai thừa nhận cha mẹ có khối
tài sản nhà đất như các nguyên đơn trình bày và năm 1972, ông lập gia đình
riêng được cha mẹ cho ở trên 162m2 đất trong thửa đất của các cụ.
Sau đó, bị đơn có lời khai khác, cho rằng 162m2 đất này có nguồn gốc
ông H3 và vợ là bà Nguyễn Thị N tự khai hoang đổ đất cải tạo hố rác, ruộng rau
muống thành nền nhà và sử dụng đến nay, không phải đất của cụ V, cụ H.
Năm 1983, gia đình ông H3 đã chuyển nhà sang nơi
khác ở, nhưng vẫn quản lý toàn bộ nhà đất của các cụ và nhà đất cũ của gia đình
ông vì lúc này cụ V và các em đi Nam xây dựng kinh tế mới. Năm 1987, ông đã kê
khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 210 diện tích 162m2.
Năm 1988, cụ V về quê và đứng ra chia đất nhưng chỉ chia cho bốn người con trai
mà không chia cho 3 con gái như các nguyên đơn trình bày. Vị trí và diện tích
chia cho ông Đ, ông T và ông Q và việc nhận đất sử dụng ông cũng thống nhất như
nguyên đơn. Khi cụ V chia đất, ông đã đồng ý cắt bớt 52m2 trong 162m2
đất của ông cho ông Q nên ông chỉ còn 110m2. Năm 2004, ông đã viết
giấy cho hai con là anh L 65m2, chị T 45m2 và đề nghị
tách làm 2 thửa cho con nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận thì bà H, bà H1 và
bà H2 tranh chấp. Ông H3 cho rằng không có việc cụ V chia đất năm 1991 cho bà
H, bà H1 và bà H2 như nguyên đơn trình bày. Các nguyên đơn khởi kiện là đã hết
thời hiệu về thừa kế, 110m2 đất là của ông và không đồng ý yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Chị Phạm Thị T, anh Phạm Văn L có ý kiến trình bày
như ông H3. Chị T5 xác định năm 2003 đã làm 1 gian nhà trên phần đất nguyên đơn
đòi lại.
Ông Phạm Văn T trình bày: Nguồn gốc nhà đất như các
nguyên đơn trình bày. Xác nhận năm 1991, cụ V tổ chức họp gia đình và thống
nhất chia đất (chia miệng) cho các con, trong đó 3 con gái được chia chung một
phần và phần này ông H3 quản lý cùng phần ông H3 được chia. Ông xác nhận đã
nhận phần đất được chia, sau đó cũng đã chuyển nhượng một phần cho người khác.
Ông đề nghị Tòa án giải quyết buộc ông H3 trả đất cho ba chị em gái.
Bà Nguyễn Thị T cùng các con chung với ông Phạm Văn
Đ; bà Phùng Thị H4 cùng các con chung với ông Phạm Văn Q, xác nhận cụ V có chia
đất cho các con, nhưng các bà T và bà H4 là con dâu không được tham gia nên
không biết rõ việc chia này. Bà T xác nhận phần đất ông Đ được chia, sau đó ông
đã bán luôn để lấy tiền đi Nam. Bà H4 xác nhận phần ông Q được gia đình bà sử
dụng làm nhà ở đến nay. Do ông Đ, ông Q đã được chia đất nên bà T, bà H4 và các
con không có yêu cầu gì trong vụ án này.
Sau khi Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý sơ
thẩm lại vụ án vào năm 2010, ông T và các thừa kế của ông Đ, ông Q đều trình
bày không có yêu cầu gì trong 110m2 đất mà nguyên đơn yêu cầu chia
thừa kế, đều thống nhất cho ba nguyên đơn và ông H3 hưởng phần thừa kế của ông
T, ông Đ, ông Q trong khối tài sản tranh chấp 110m2 này.
Vụ án đã qua các lần xét xử sơ, phúc thẩm như sau:
- Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2005/DSST ngày
07-7-2005 của Tòa án nhân dân huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây (cũ);
- Bản án dân sự phúc thẩm số 126/2005/DSPT ngày
30-11-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây (cũ);
Quyết định Giám đốc thẩm số 106/2007/DS-GĐT ngày
23-4-2007 của Tòa dân sự (cũ) Tòa án nhân dân tối cao đã chấp nhận Kháng nghị
số 23/2007/KN-DS ngày 02-3-2007 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, hủy Bản
án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm, giao Tòa án nhân dân huyện Quốc Oai giải quyết
sơ thẩm lại.
- Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2009/DSST ngày
07-01-2009 của Tòa án nhân dân huyện Quốc Oai;
- Bản án dân sự phúc thẩm số 87/2009/DSPT
ngày
02-4-2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã hủy bản án sơ thẩm để giải
quyết lại. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có Quyết định chuyển hồ sơ vụ án
lên Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để giải quyết sơ thẩm.
- Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có Quyết định số
41/2010/QĐST-DS ngày 20-7-2010 đình chỉ việc giải quyết vụ án;
- Tại Quyết định số 183/2010/QĐ-PT ngày 19-11-2010,
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội (cũ) hủy quyết định sơ thẩm
nêu trên, giao hồ sơ cho Tòa án nhân thành phố Hà Nội giải quyết sơ thẩm lại;
- Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2013/DSST ngày 30,
31-5-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:
1.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia di sản thừa kế của bà Phạm Thị H, Phạm Thị H1,
Phạm Thị H2.
2.
Xác định quyền sử dụng thửa đất 252 tờ bản đồ số 2 có diện tích 110m2 tại
thị trấn Q - Hà Nội là tài sản của cụ Ngô Thị V, cụ Phạm Văn H có giá trị
1.321.200.000 đồng.
Chia
giá trị tài sản chung của cụ V và cụ H mỗi người 1/2 giá trị tài sản là 660.600.000
đồng.
Phần
tài sản của cụ H là quyền sử dụng 55m2 đất có giá trị 660.600.000
đồng đã hết thời hiệu chia thừa kế.
Phần
tài sản của cụ V là quyền sử dụng 55m2 đất có giá trị 660.600.000
đồng.
Chia
cho ông H3, bà H, bà H2, bà H1 mỗi kỷ phần được hưởng là 120.120.000 đồng.
Chia
cho ông H3 được sở hữu phần tài sản có giá trị 240.240.000 đồng;
Chia
cho bà H, bà H2, bà H1 mỗi người được hưởng phần tài sản có giá trị 120.120.000
đồng, tổng 360.360.000 đồng.
Chia
cho bà H, bà H1, bà H2 được sử dụng nhà cấp 4 nằm trên thửa đất số 252 tờ bản
đồ số 2 thị trấn Q, Hà Nội có diện tích 44,4m2 có giá trị
532.800.000 đồng, có sơ đồ kèm theo.
Chia
cho ông Phạm Văn H3 được quyền sử dụng 10,7m2 đất, ông H3, chị T,
anh H tiếp tục quản lý diện tích 55m2 đất thuộc quyền sử dụng của cụ
H do bị hết thời hiệu trên thửa đất số 252 tờ bản đồ số 02 thị trấn Q (có sơ đồ
kèm theo) đến khi nào có quyết định khác của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Ông H3, chị T, anh H được sở hữu giá trị xây dựng ngôi nhà 2 tầng, 1 tum có giá trị 300.000.000 đồng nằm trên 65,7m2
đất tại thửa đất 252 tờ bản đồ số 02 thị trấn Q Hà Nội (có sơ đồ kèm theo). Ông
H3 được nhận 172.440.000 đồng, chị T, anh H được nhận 20.000.000 đồng tiền sửa
chữa cải tạo cho chị do bà H, bà H1 và bà H2 thanh toán.
Bà
H, bà H1 và bà H2 có trách nhiệm thanh toán cho ông H3 số tiền 172.440.000 đồng
và 20.000.000 đồng tiền sửa chữa cải tạo cho chị T và anh H.
Hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện Quốc Oai cấp ngày
10-9-1987 đối với thửa đất số 210 tờ bản đồ số 2 có diện tích 162m2
đứng tên ông Phạm Văn H3.
Ghi
nhận sự tự nguyện của ông Phạm Văn T, bà Nguyễn Thị T và các con: Phạm Thị Thu
T2, Phạm Thị Thu T3, Phạm Thị Thanh T4; bà Phùng Thị H4, các con là Phạm Thị
H5, Phạm Đức H, Phạm Đức M đều từ chối không nhận di sản, không yêu cầu về
quyền lợi đối với diện tích 110m2 đất tại thửa đất số 252 tờ bản đồ
số 2 thị trấn Q - Hà Nội của cụ V và cụ H.
Ghi
nhận sự tự nguyện của ông Phạm Văn H3, bà Phạm Thị H, bà Phạm Thị H2, bà Phạm
Thị H1, ông Phạm Văn T, bà Nguyễn Thị T và các con là Phạm Thị Thu T2, Phạm Thị
Thu T3, Phạm Thị Thanh T4, bà Phùng Thị H4, các con là Phạm Thị H5, Phạm Đức H,
Phạm Đức M:
+ Không yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản trên
đất của cụ V và cụ H là 4 gian nhà tranh vách đất;
+ Không yêu cầu Tòa án giải quyết về chi phí mai
táng phí;
+ Không yêu cầu về quyền lợi đối với thửa đất số
253 mang tên Phạm Văn Q, thửa đất số 261 mang tên Phạm Văn T (diện tích 189m2,
bao gồm cả thửa 261b), thửa 260 diện tích 94m2 mang tên Nguyễn Thị
P.
+ Không yêu cầu Tòa án giải quyết việc ông T,
ông Đ đã chuyển nhượng đất cho người khác;
+ Không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với khoản
tiền 8.733.000 đồng.
Bản án còn có quyết định về án phí, quyền kháng
cáo, lãi suất chậm thi hành án.
Ngày 14-6-2013, chị T, anh H và anh L kháng cáo.
-
Tại Bản án
dân sự phúc thẩm số 53/2014/DSPT ngày 04-4-2014, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao tại Hà Nội quyết định: Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ngày 19-8-2014, ông Phạm Văn H3 có đơn đề nghị giám
đốc thẩm.
-
Tại Kháng
nghị số 152/2015/KN-DS
ngày 28-5-2015, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án dân sự
phúc thẩm 53/2014/DSPT ngày 04-4-2014 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao
tại Hà Nội, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc
thẩm theo hướng huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số 53/2014/DSPT ngày 04-4-2014 của
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án dân sự sơ thẩm số
24/2013/DSST ngày 30, 31-5-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ
sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát
nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
NHẬN
ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Cụ Phạm Văn H (chết năm 1978) và vợ là cụ Ngô
Thị V có 7 con chung là ông Phạm Văn H3, ông Phạm Văn Đ (chết năm 1998), ông
Phạm Văn T, ông Phạm Văn Q (chết năm 2000), bà Phạm Thị H, Phạm Thị H1, Phạm
Thị H2. Sinh thời các cụ có tạo lập được gian nhà tranh vách đất trên khoảng
464m2 đất tại phố H, thị trấn Q, tỉnh Hà Tây (cũ, nay là thành phố
Hà Nội). Đất có nguồn gốc các cụ được chia trong cải cách ruộng đất.
[2] Sau khi
cụ H chết, vợ chồng ông H3, bà N ở và trông nom nhà đất, còn cụ V và những
người con khác đi xây dựng kinh tế mới ở Miền Nam. Năm 1983, vợ chồng ông H3
chuyển đến nhà đất nơi khác ở nhưng vẫn trông nom quản lý nhà, đất. Ủy ban nhân
dân huyện Q xác nhận sổ sách địa chính lưu giữ tại Ủy ban nhân dân cho thấy
mảnh đất của các cụ được chia làm 2 thửa, một thửa mang số 210 diện tích 162m2
do ông H3 đứng tên và thửa 213 diện tích 300m2 do ông T đứng tên.
Sau đó, cụ V quay về nhà đất này và ở tại đây cho đến khi qua đời vào năm 1994.
Sau khi về, cụ đã họp các con và đứng ra phân chia toàn bộ thửa đất thành bốn
phần riêng biệt cho các con, không ai có ý kiến gì và đều thống nhất thực hiện
việc phân chia này. Như vậy, việc ông T, ông H3 đồng ý cùng với cụ V chia 464m2
đất đã thể hiện việc ông T, ông H3 chỉ là người đứng tên trong giấy tờ sổ sách
giấy tờ về địa chính, nhà đất vẫn là của cụ V, cụ H chưa chia. Ông H3 cũng
không đưa ra được chứng cứ chứng minh 162m2 là tài sản riêng của
ông.
[3] Phần chia cho ông Đ (94m2), ông Q
(78m2), ông T (189m2), các ông đều đã nhận đất sử dụng
sau đó đã được đăng ký đứng tên chủ sử dụng đất, hoặc chuyển nhượng cho người
khác thì cũng đã đăng ký điều chỉnh trong các giấy tờ về đất, cho đến nay không
ai có tranh chấp gì. Đối với phần đất 110m2 còn lại (là phần có 7m
ngang mặt đường) do ông H3 quản lý, đến năm 2004 do ông chia đất cho các con
của mình nên bà H, bà H1, bà H2 mới có tranh chấp đòi lại 44,4m2.
Thực tế thời điểm cụ V chia đất, các con đều đã trưởng thành, một số có gia
đình riêng có nhu cầu về đất ở, riêng ông H3 đã có nhà đất; bà H, bà H1 và bà
H2 đang ở Bình Phước nên bốn người này chưa có nhu cầu xây dựng nhà ở. Ông T
thừa nhận việc cụ V chia đất, tất cả các con đều đồng ý và ông T xác định phần
đất 110m2 do ông H3 quản lý là cụ V chia cho ông H3 và bà H, bà H1
và bà H2. Ông T đề nghị Tòa án giải quyết để bà H, bà H1, bà H2 được nhận lại
tài sản của mình. Vợ của ông Đ, ông Q là bà T, bà H4 và các con của ông Đ, ông
Q, tuy không biết cụ thể việc phân chia nhưng đều thống nhất là cụ V đã chia
đất xong cho các con rồi nên các bà không có yêu cầu gì và phần 110m2
để cho ông H3, bà H, bà H2 hưởng phần đất này. Do đó, có đủ cơ sở xác định cụ V
có chia đất cho bà H, bà H1 và bà H2 và phần đất này ông H3 quản lý.
[4] Với các chứng cứ trên, đủ cơ sở xác định nhà
đất của cụ V, cụ H đã được cụ V và các thừa kế của cụ H thống nhất phân chia
tài sản chung xong từ năm 1991 và đủ cơ sở xác định phần đất 110m2
trong đó phần bà H, bà H1 và bà H2 là 44,4m2. Việc phân chia đã được
thực hiện trên thực tế và đã được điều chỉnh trên sổ sách giấy tờ về đất đai;
thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào, không ai
tranh chấp nên có cơ sở xác định nhà, đất không còn là di sản thừa kế của cụ V,
cụ H nữa mà đã chuyển thành quyền sử dụng đất hợp pháp của các cá nhân. Vì vậy,
bà H, bà H1, bà H2 chỉ có quyền khởi kiện đòi lại 44,4m2 đất thuộc
quyền sử dụng hợp pháp do được chia từ năm 1991; tài sản là di sản thừa kế của
cha mẹ không còn nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu chia di sản của cụ H, cụ
V nữa.
[5] Đơn khởi kiện ban đầu và các lời khai trước khi
Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án vào năm 2010, các nguyên đơn chỉ đòi lại
44,4m2 đất này. Nhưng sau khi thụ lý sơ thẩm lại vụ án, các nguyên
đơn lại thay đổi lời khai, yêu cầu chia di sản thừa kế phần 110m2
đất là tài sản của cha, mẹ để lại đang do ông H3 quản lý, là không có cơ sở chấp
nhận. Tòa án cấp sơ thẩm không làm rõ lời khai đương sự về việc thay đổi yêu
cầu khởi kiện này, quyết định chấp nhận yêu cầu chia thừa kế 110m2
đất; Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm, đều không
có cơ sở.
Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 291; khoản 3
Điều 297 và khoản 2 Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2011);
QUYẾT
ĐỊNH:
1.
Hủy Bản án
dân sự phúc thẩm số 53/2014/DSPT ngày 04-4-2014 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao tại Hà Nội và Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2013/DS-ST
ngày
31-5-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về vụ án “Tranh chấp thừa kế
quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị H, bà Phạm Thị H2, bà Phạm
Thị H1 với bị đơn là ông Phạm Văn H3.
2.
Giao hồ sơ vụ
án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định
của pháp luật.
NỘI
DUNG ÁN LỆ
“[4]…nhà
đất của cụ V, cụ H đã được cụ V và các thừa kế của cụ H thống nhất phân chia
tài sản chung xong từ năm 1991 và đủ cơ sở xác định phần đất 110m2
trong đó phần bà H, bà H1 và bà H2 là 44,4m2. Việc phân chia đã được
thực hiện trên thực tế và đã được điều chỉnh trên sổ sách giấy tờ về đất đai;
thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào, không ai
tranh chấp nên có cơ sở xác định nhà, đất không còn là di sản thừa kế của cụ V,
cụ H nữa mà đã chuyển thành quyền sử dụng đất hợp pháp của các cá nhân. Vì vậy,
bà H, bà H1, bà H2 chỉ có quyền khởi kiện đòi lại 44,4m2 đất thuộc
quyền sử dụng hợp pháp do được chia từ năm 1991; tài sản là di sản thừa kế của
cha mẹ không còn nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu chia di sản của cụ H, cụ
V nữa.”
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)