Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
thông quangày 17 tháng 10 năm 2018 và được công bố theo
Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao.
Nguồn án lệ:
Bản án
phúc thẩm số 331/2018/HS-PT ngày 28-5-2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội về vụ án “Giết người” đối với bị cáo: Phan Thành H, tên gọi khác: Đ; sinh năm 1995; nơi đăng ký HKTT:
Xã C, huyện D, tỉnh Bình Định; chỗ ở hiện nay: Thôn B, xã C, huyện D, tỉnh
Bình Định.
- Bị hại: Anh Nguyễn Anh
Đ.
Vị trí
nội dung án lệ:
Đoạn 1, 3 phần “Nhận định của Tòa án”.
Khái
quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ:
Bị cáo bị cảnh sát giao thông yêu cầu dừng xe để xử
lý vi phạm nhưng không chấp hành mà điều khiển xe đâm thẳng vào cảnh sát giao
thông. Khi cảnh sát giao thông bám vào cọng gương chiếu hậu của xe, bị cáo tiếp tục
điều khiển xe chạy với tốc độ cao, bất ngờ đánh lái sát giải phân cách nhằm hất
cảnh sát giao thông
xuống đường.
Cảnh sát giao thông rơi khỏi xe, va vào giải phân
cách cứng giữa đường, bị đa chấn thương.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội “Giết người” với tình tiết định khung là “Giết người đang thi hành công
vụ”.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự năm 1999
(tương ứng với khoản d khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015).
Từ khoá của án lệ:
“Tội Giết người”, “Cảnh sát giao thông” “Giết người
đang thi hành công vụ”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản cáo trạng và bản án sơ thẩm của
Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Về hành vi giết người:
Thực hiện kế hoạch của Phòng cảnh
sát giao thông đường bộ - đường sắt Công an tỉnh Hà Tĩnh (PC67), ngày
30-6-2017 Tổ tuần tra kiểm soát gồm các đồng chí: Võ Hoàng N, Nguyễn
Anh Đ, Lê Hồ Việt A và Dương Hoài N (do đồng chí Võ Hoàng N làm tổ
trưởng) thực hiện nhiệm vụ tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm về an
toàn giao thông từ Km468 đến Km517 Quốc lộ 1A. Đồng chí Dương Hoài N
được giao nhiệm vụ sử dụng máy kiểm tra tốc độ phương tiện giao thông
số hiệu UX027957 đo tốc độ phương tiện tại Km11+450 đường tránh thành
phố Hà Tĩnh, thuộc xã H, huyện I, tỉnh Hà Tĩnh. Các đồng chí Võ
Hoàng N, Nguyễn Anh Đ và Lê Hồ Việt A có nhiệm vụ dừng, kiểm tra,
kiểm soát và xử lý đối với các phương tiện vi phạm tại Km488 + 650
Quốc lộ 1A, thuộc địa phận xã K, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh.
Ngày 30-6-2017, Từ Công T và Phan Thành H
điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS: 77C-016.47 kéo theo Sơmirơmoóc BKS: 77R-001.37
lưu thông từ Nam ra Bắc. Khi đến địa phận tỉnh Quảng Bình thì xe do Phan Thành
H điều khiển, còn Từ Công T nằm ngủ trong buồng lái. Lúc 15 giờ 28 phút cùng
ngày, khi Phan Thành H điều khiển xe đến Km11+450 đường tránh thành phố Hà Tĩnh
thì đồng chí Dương Hoài N dùng máy kiểm tra tốc độ phương tiện và phát hiện xe
ô tô đầu kéo do H điều khiển vi phạm tốc độ 66/60km/h nên đã thông báo và gửi
hình ảnh vi phạm bằng tin nhắn qua điện thoại di động cho Tổ tuần tra làm nhiệm
vụ tại Km488 + 700 Quốc lộ 1A biết để xử lý.
Đến 16 giờ 05 phút cùng ngày, khi xe ô tô
đầu kéo BKS: 77C-016.47 do Phan Thành H điều khiển đi đến Km488+650 Quốc lộ 1A
thuộc địa phận xã K, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh thì bị Tổ tuần tra Phòng cảnh
sát giao thông Công an tỉnh Hà Tĩnh ra tín hiệu dừng phương tiện. Sau khi Phan
Thành H cho xe dừng lại, đồng chí Nguyễn Anh Đ đã thông báo lỗi, cho Phan Thành
H xem hình ảnh vi phạm và yêu cầu xuất trình giấy tờ. Tuy nhiên Phan Thành H
cho rằng xe mình không vi phạm tốc độ, nên không xuất trình giấy tờ rồi tranh
cãi với đồng chí Đ và các đồng chí trong Tổ tuần tra đang làm nhiệm vụ. Đồng
thời, Phan Thành H lấy máy điện thoại di động có hiển thị hình ảnh tốc độ của
xe mình để đối chiếu. Tổ tuần tra giải thích nhưng Phan Thành H vẫn không chấp
nhận mà tiếp tục tranh cãi, sau đó lên xe ô tô đóng cửa lại (xe vẫn đang nổ
máy). Lúc này, đồng chí Lê Hồ Việt A đang đứng phía trước bên phải đầu xe, còn
đồng chí Nguyễn Anh Đ đang đứng phía trước bên trái cách đầu xe ô tô BKS:
77C-016.47 khoảng 01 mét, ra hiệu cho Phan Thành H không được điều khiển xe di
chuyển. Tuy vậy, Phan Thành H không chấp hành hiệu lệnh mà bất ngờ điều khiển
xe lao thẳng vào đồng chí Lê Hồ Việt A và đồng chí Nguyễn Anh Đ đang đứng phía
trước đầu xe để bỏ chạy. Thấy vậy, đồng chí Lê Hồ Việt A nhảy ra lề đường
phía bên phải tránh được, còn đồng chí Nguyễn Anh Đ không kịp tránh nên buộc
phải bám vào cọng gương chiếu hậu phía trước bên trái trên nắp capo của xe. Mặc
dù thấy đồng chí Nguyễn Anh Đ đang bám vào cọng gương chiếu hậu nhưng Phan
Thành H vẫn tiếp tục điều khiển xe tăng tốc. Khi đến Km488 + 250 Quốc lộ 1A
(cách vị trí xuất phát khoảng 400 mét), lúc này xe của Phan Thành H điều khiển
đang chạy ở làn đường bên phải, mặc dù phía trước không có chướng ngại vật hoặc
xe cùng chiều nhưng H bất ngờ đánh lái mạnh về phía bên trái, chuyển hướng đầu
xe vào sát dải phân cách cứng giữa đường, mục đích để hất đồng chí Nguyễn Anh Đ
xuống nhằm bỏ chạy. Do lúc này đồng chí Nguyễn Anh Đ chỉ bám hai tay vào cọng
gương chiếu hậu của xe, hai chân không có điểm tựa nên khi xe đánh lái đột ngột
đã bị văng khỏi xe va vào dải phân cách cứng, rồi rơi xuống mặt đường.
Sau khi đánh lái đột ngột hất đồng chí
Nguyễn Anh Đ rơi xuống đường, Phan Thành H vẫn không dừng lại mà tiếp tục điều
khiển xe bỏ chạy, không chấp hành hiệu lệnh dừng xe của Tổ tuần tra. Đến Km488
Quốc lộ 1A, khi Lực lượng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Tĩnh dùng xe
chuyên dụng chặn xe lại thì Phan Thành H mới chịu dừng xe nhưng vẫn không chấp
hành mà tiếp tục xuống xe tranh cãi với người thi hành công vụ rồi lên xe đóng
cửa ngồi trên xe không hợp tác, sau đó điều khiển xe chắn ngang đường gây ách
tắc giao thông. Công an huyện L đã phối hợp với Phòng Cảnh sát giao thông Công
an tỉnh Hà Tĩnh buộc Phan Thành H điều khiển xe vào lề đường và đưa về Trụ sở
Công an huyện L giải quyết.
Hậu quả: Đồng chí Nguyễn Anh Đ bị thương
nặng được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa thị xã Hồng Lĩnh, sau đó chuyển
đến điều trị tại Bệnh viện hữu nghị Việt Đức, đến ngày 10-7-2017 được chuyển về
điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Tĩnh cho đến ngày 18-7-2017 thì ra viện.
Quá trình Phan Thành H thực hiện hành vi
trên có anh Trần Trung Đ, trú tại số 102 đường M, quận N, thành phố Hà Nội là
hành khách đi trên xe taxi BKS: 37A-304.84 của hãng taxi Mai Linh dùng máy di
động quay lại diễn biến sự việc.
- Tại bản
kết luận giám định pháp y về thương tích số 87 ngày 18-9-2017 của Trung tâm
Pháp y tỉnh Hà Tĩnh đối với thương tích của anh Nguyễn Anh Đ xác định:
+ Chấn thương sọ não: Đụng dập nhu mô não
thùy trán trái, vỡ xương đỉnh phải;
+ Vùng đỉnh đầu sẹo vết thương kích thước
2,5cm x 0,2cm; vùng thùy thái dương phải sẹo vết thương 1,5cm x 0,2cm;
+ X Quang: Hình ảnh gãy 1/3 trên xương
mác trái đã có can xương.
Kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do
thương tích gây nên hiện tại là 40%. (BL: 139, 140).
Quá trình điều tra Phan Thành H trình bày
xe ô tô H điều khiển không vi phạm tốc độ, theo thiết bị giám sát hành trình
VTR01 lắp trên xe ô tô đầu kéo BKS: 77C-016.47 phản ánh trên đoạn đường tránh
thành phố Hà Tĩnh xe ô tô đầu kéo BKS: 77C-016.47 chạy tốc độ dưới 60km/h. Tuy
nhiên, thiết bị giám sát hành trình VTR01 lắp đặt trên xe ô tô đầu kéo BKS:
77C-016.47 đạt quy chuẩn QCVN31:2001/GTVT ban hành theo Thông tư số
08/2011/TT-BGTVT ngày 08-3-2011 của Bộ Giao thông vận tải có sai số
5km/h và cập nhật tốc độ của xe với thời gian
10 giây/01 lần. Trong khi đó, máy kiểm tra tốc độ phương tiện giao thông với số
hiệu UX027957 được kiểm định theo Giấy chứng nhận kiểm định số V08.KD.525.16
ngày 29-9-2016 của Viện đo lường Việt Nam, có đặc trưng kỹ thuật đo lường: Phạm
vi đo 8 - 320 km/h, cấp chính xác
2km/h và đo trực tiếp tốc độ của phương tiện
đang lưu thông.


Trong vụ việc này, Phan Thành H phải có
trách nhiệm chấp hành hiệu lệnh, xuất trình giấy tờ theo yêu cầu của người thi
hành công vụ, nếu không đồng ý với kết quả xử lý thì có thể khiếu nại. Tuy
nhiên, do lo sợ bị phát hiện việc sử dụng giấy phép lái xe giả nên Phan Thành H
không chấp hành và gây án.
2. Về hành vi làm giả tài liệu của cơ
quan, tổ chức:
Khoảng tháng 10-2016, Phan Thành H (có
giấy phép lái xe hạng C) được Từ Công T nhận làm phụ xe ô tô đầu kéo đi cùng T
vận chuyển hàng hóa. Quá trình làm phụ xe, Từ Công T thấy H có thể điều khiển
được xe ô tô đầu kéo, nhưng Phan Thành H chưa đủ tuổi để được cấp phép lái xe
hạng FC. Khoảng tháng 02-2017, Từ Công T lấy ảnh của Phan Thành H rồi liên hệ
với một người không quen ở thành phố Hải Phòng làm 01 giấy phép lái xe hạng FC
giả, số: 520144004729 mang tên Lưu Văn C có gắn ảnh của Phan Thành H với giá
2.500.000 đồng rồi giao cho H sử dụng để đối phó, lừa dối khi bị các cơ quan
chức năng kiểm tra.
Ngày 30-6-2017, khi làm việc với Cơ quan
CSĐT Công an huyện L, Phan Thành H đã xuất trình giấy phép lái xe giả hạng FC
mang tên Lưu Văn C (sinh năm 1991; trú tại thị trấn O, huyện D, tỉnh Bình
Định). Đồng thời, cả Phan Thành H và Từ Công T đều khai tên của H là Lưu Văn C
nhằm lừa dối cơ quan điều tra. Do vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện L đã ra các
quyết định tố tụng đối với Phan Thành H nhưng mang tên giả Lưu Văn C.
Trong quá trình điều tra còn xác định:
Vào hồi 16 giờ 50 phút ngày
22-4-2017, tại Km1060 + 400 QL1A thuộc địa phận tỉnh Quảng Ngãi, Phan Thành H
điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS: 77C-103.69 kéo theo Sơmirơmoóc 77R-014.65 vi
phạm lỗi “Chuyển hướng không có tín hiệu rẽ” và đã sử dụng giấy phép lái xe giả
số 520144004728, mang tên Lưu Văn C để lừa dối Tổ tuần tra kiểm soát Phòng Cảnh
sát giao thông Công an tỉnh Quảng Ngãi.
- Tại bản
kết luận giám định số 10 ngày 05-7-2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Hà
Tĩnh xác định: Giấy phép lái xe số 520144004729 mang tên Lưu Văn
C, sinh ngày 10-6-1991, nơi cư trú: Thị trấn O, huyện D, tỉnh Bình Định cấp
ngày 18-11-2015 là Giấy phép lái xe giả (BL: 91).
Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 (một) xe ô tô đầu
kéo nhãn hiệu FREIGHTLINER, BKS:77C-016.47, số loại: CL 120064S, sơn màu đỏ, số
máy: 0933U0841843, số khung: 6CV36LX06844 cùng các giấy tờ liên quan đến xe;
- 01 (một) giấy phép lái xe (thẻ nhựa)
số: 520144004729, hạng FC giả mang tên Lưu Văn C;
- 01 (một) giấy phép lái xe (thẻ nhựa)
số: 5201600087, hạng C mang tên Phan Thành H do Sở GTVT tỉnh Bình Định cấp;
- 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số:
215341305, mang tên Phan Thành H do Công an tỉnh Bình Định cấp;
- 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu
ARBUTUS màu vàng, màn hình cảm ứng, số IMEI: 355052654004631, 355052654004649,
máy đã qua sử dụng;
- 01 (một) USB nhãn hiệu Kingston, dung
lượng 8GB, trên bề mặt có chữ DT101 G2 có lưu trữ tập tin Video: IMG-1245.MOV
thời lượng 00 phút 37 giây.
- 01 (một) USB nhãn hiệu Apacer dung
lượng 8GB lưu trữ 02 tập tin Video: IMG-0507.MOV thời lượng 02 phút 58 giây và
Video: IMG-0509.MOV thời lượng 03 phút 04 giây.
- 01 (một) USB nhãn hiệu Kingston, dung
lượng 8GB, trên bề mặt có chữ DT101.G2 có lưu trữ tập tin Video: IMG-1689.MOV
thời lượng 05 phút 10 giây.
Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Hà Tĩnh đã trả
lại chiếc xe ô tô đầu kéo BKS: 77C-016.47 và các giấy tờ liên quan cho chủ sở
hữu là Công ty TNHH vận tải và Thương mại tổng hợp T; 03 (ba) chiếc USB đang
được lưu giữ theo hồ sơ vụ án, còn các vật chứng khác được chuyển đến Cục thi
hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh để quản lý.
Với hành vi trên, tại Bản cáo trạng số
35/CTr - KSĐT, ngày 13-10-2017, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố
Phan Thành H về tội “Giết người” theo điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự
và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 2
Điều 267 của Bộ luật Hình sự. Truy tố Từ Công T về tội “Làm giả
tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 2 Điều 267 của Bộ
luật Hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2017/HSST ngày
26-12-2017, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã quyết định:
1. Tuyên bố bị cáo Phan Thành H phạm tội: “Giết
người” và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”, bị cáo Từ
Công T phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
- Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 93; khoản 3 Điều
52; điểm b khoản 2 Điều 267; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47
Bộ luật Hình sự năm 1999:
Xử phạt bị cáo Phan Thành H 08 (tám) năm tù
về tội “Giết người” và 02 (hai) năm tù về tội “Làm giả tài liệu
của cơ quan, tổ chức”.
Áp dụng khoản 1 Điều 50
Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt của 02 tội buộc Phan Thành H phải chịu
hình phạt chung là 10 (mười) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù
tính từ ngày bị tạm giữ, tạm
giam (ngày 30-6-2017).
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 267, khoản 2
Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Từ Công T 02 (hai) năm
tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành
án.
Ngoài ra Tòa án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật
chứng, án phí hình sự sơ thẩm, thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp
luật.
Ngày 03-01-2018, bị cáo Phan Thành H kháng cáo xin
được giảm hình phạt; bị cáo Từ Công T kháng cáo xin giảm hình phạt và đề nghị
được hưởng án treo.
Tại phiên tòa, bị cáo Phan Thành H đã khai nhận toàn bộ
hành vi giết người và hành vi làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức như đã được nêu
trên. Bị cáo trình bày, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt quá nặng, đề nghị Hội đồng
xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo Từ Công T đã khai nhận toàn bộ hành vi làm
giả tài liệu của cơ quan, tổ chức như đã được nêu trên, bị cáo trình bày, bị
cáo phạm tội lần đầu thuộc
trường hợp ít nghiêm trọng, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường
thiệt hại, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, đề nghị Hội đồng xét xử xem
xét cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội
phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Có đủ chứng cứ để kết
luận bị cáo Phan Thành H đã phạm tội “Giết người” và tội “Làm giả tài liệu của cơ
quan, tổ chức” được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93; điểm b khoản 2 Điều
267 Bộ luật Hình sự.
Đối với bị cáo Từ Công T: Đã phạm tội “Làm giả tài
liệu của cơ quan, tổ chức” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 267 Bộ luật Tố
tụng hình sự.
Sau khi đánh giá tính chất và mức độ nghiêm trọng
của hành vi phạm tội của các bị cáo;
xem xét nhân thân; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo,
đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử
không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Thành H, giữ nguyên quyết định của
bản án sơ thẩm; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Từ Công T, giữ nguyên hình phạt
và cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách theo quy định của pháp luật.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Phan Thành H phát biểu ý
kiến: Không tham gia tranh luận về tội danh và khung hình phạt, đề nghị Hội
đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, p khoản 1 và khoản 2
Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999 và giảm hình
phạt cho bị cáo Phan Thành H.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao, Luật sư và các bị cáo
vẫn giữ nguyên ý kiến của mình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Phan Thành H và Từ
Công T phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng, kết
luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ
cơ sở kết luận: Vào khoảng 16 giờ 05 phút ngày 30-6-2017, bị cáo Phan Thành H
điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS: 77C-016.47 kéo theo sơmirơmoóc BKS: 77R-001.37,
khi đi đến km 488 + 650 quốc lộ 1A thuộc địa phận xã K, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh
thì bị tổ tuần tra Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Tĩnh dừng xe vì đã
vi phạm về tốc độ (66/60km/giờ). Bị cáo Phan Thành H đã không chấp hành vì cho
rằng mình không vi phạm tốc độ, nên đã tranh cãi và điều khiển xe đâm thẳng vào
ông Nguyễn Anh Đ và ông Lê Hồ Việt A là cảnh sát giao thông đang làm nhiệm
vụ, khi những người này đang đứng trước đầu xe ô tô. Ông Lê Hồ Việt A nhảy
sang lề đường tránh được, còn ông Nguyễn Anh Đ buộc phải bám vào cọng gương
chiếu hậu phía trước bên trái đầu xe. Phan Thành H tiếp tục điều khiển xe chạy
với tốc độ cao, rồi bất ngờ đánh lái mạnh về phía bên trái vào sát giải phân
cách giữa đường nhằm hất ông Nguyễn Anh Đ xuống đường để bỏ trốn. Hậu quả là
ông Nguyễn Anh Đ bị rơi khỏi xe va vào giải phân cách cứng giữa đường, rồi rơi
xuống đường. Phan Thành H bỏ mặc cho hậu quả xảy ra rồi tiếp tục điều khiển xe
chạy trốn. Ông Nguyễn Anh Đ đã bị chấn thương sọ não, gãy chân, tổn hại sức
khỏe 40%.
[2] Phan Thành H và Từ Công T còn có hành vi phạm tội như sau: Bị cáo
Từ Công T biết rõ bị cáo Phan Thành H chưa có giấy phép lái xe hạng FC và chưa
đủ tuổi để được cấp giấy phép lái xe hạng FC, nhưng Từ Công T đã thuê một người
ở Hải Phòng (T không biết
rõ họ tên và địa chỉ) làm giấy phép lái xe hạng FC giả, số 520144004729 có ảnh
của Phan Thành H, nhưng mang tên Lưu Văn C đưa cho Phan Thành H sử dụng nhằm lừa dối cơ
quan chức năng khi điều khiển xe trên đường. Khi có giấy phép lái xe giả do Từ
Công T cung cấp, Phan Thành H đã hai lần sử dụng giấy phép lái xe giả để lừa dối cảnh sát giao
thông tỉnh Quảng Ngãi và Công an huyện L, tỉnh Hà Tĩnh. Hành vi sử dụng giấy phép lái
xe giả lừa dối cơ quan chức năng nêu trên của Phan Thành H, thì Từ Công T đều
biết.
[3] Do có hành vi phạm tội nêu trên, Tòa
án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phan Thành H về tội “Giết người” và tội “Làm
giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm
d khoản 1 Điều 93 và điểm b khoản 2 Điều 267 Bộ luật Hình sự năm 1999 là có căn cứ,
đúng pháp luật.
[4] Bị cáo Từ Công T bị xét xử về tội “Làm giả tài
liệu của cơ quan, tổ chức” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản
2 Điều 267 Bộ luật Hình sự năm 1999 là có căn cứ,
đúng pháp luật.
[5] Xét kháng cáo của các bị cáo Phan Thành H và Từ
Công T, Hội đồng xét xử, xét thấy: Hành vi giết người do bị cáo Phan Thành H
thực hiện là nguy hiểm, đã trực tiếp xâm phạm tính mạng của người khác, gây ảnh
hưởng xấu đến trật tự an toàn giao thông công cộng.
[6] Hành vi làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức do
các bị cáo Từ Công T và Phan Thành H thực hiện đã trực tiếp xâm phạm trật tự
quản lý hành chính, do đó, cần được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
[7] Bị cáo Phan Thành H là người có nhân thân tốt, không có tiền án,
tiền sự; quá trình điều
tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi
thường cho người bị hại để khắc phục hậu quả, người bị hại có đề nghị giảm hình
phạt cho bị cáo; bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, thuộc hộ nghèo của địa phương;
hành vi phạm tội do bị cáo thực
hiện thuộc trường hợp “phạm tội chưa đạt”;
ngoài ra, bị cáo còn có ông ngoại có công với cách mạng được hưởng chế độ như
thương binh. Như vậy, bị cáo Phan Thành H được hưởng các tình tiết giảm nhẹ
theo điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 18 Bộ luật Hình sự năm 1999. Do đó có căn
cứ để giảm một phần hình phạt cho bị cáo về tội “Giết người”, giữ nguyên hình
phạt về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
[8] Đối với bị cáo Từ Công T: Là người có nhân thân
tốt, không có tiền án,
tiền sự. Quá trình khai
báo thành khẩn, tỏ thái độ ăn ăn hối cải; bị cáo đã cùng gia đình bị cáo Phan
Thành H bồi thường cho người bị hại để khắc phục hậu quả; bị cáo có hoàn cảnh
khó khăn là lao động chính trong gia đình; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Xét
thấy không cần thiết bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù, cho bị cáo được
cải tạo tại địa phương cũng đủ điều kiện để giáo dục bị cáo và phòng ngừa
chung. Do đó, có đủ căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo Từ Công T.
[9] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có
kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
[10] Các bị cáo Phan Thành H và Từ Công T không phải
chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ điểm b khoản 1; Điều 355; điểm e khoản 1 Điều
357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
QUYẾT ĐỊNH:
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Phan
Thành H, sửa bản án sơ thẩm.
Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 93; điểm b khoản 2 Điều
267; Điều 18; khoản 3 Điều 52 (tội Giết người); điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều
46; Điều 47; khoản 1 Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 1999: Xử phạt bị cáo
Phan Thành H 07 (bảy) năm tù về tội “Giết người”; 02 (hai) năm tù về tội “Làm
giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội là 09
(chín) năm tù. Thời hạn chấp hành
hình phạt tù tính từ ngày 30-6-2017.
2. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Từ Công T, sửa bản
án sơ thẩm.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 267; điểm b, p khoản 1,
khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999: Xử phạt bị cáo
Từ Công T 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Làm giả tài liệu của
cơ quan, tổ chức”, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm kể từ ngày tuyên án phúc
thẩm. Giao bị cáo Từ Công T cho Ủy ban nhân dân thị trấn O (huyện D, tỉnh Bình Định) để giám
sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư
trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có
kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên
án.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“[1] Lời khai
nhận tội của bị cáo Phan Thành H và Từ Công T phù hợp với lời khai của người bị
hại, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ
khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 16 giờ 05
phút ngày 30-6-2017, bị cáo Phan Thành H điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS:
77C-016.47 kéo theo sơmirơmoóc BKS: 77R-001.37, khi đi đến km 488 + 650 quốc lộ
1A thuộc địa phận xã K, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh thì bị tổ tuần tra Phòng cảnh sát
giao thông Công an tỉnh Hà Tĩnh dừng xe vì đã vi phạm về tốc độ (66/60km/giờ).
Bị cáo Phan Thành H đã không chấp hành vì cho rằng mình không vi phạm tốc độ,
nên đã tranh cãi và điều khiển xe đâm thẳng vào ông Nguyễn Anh Đ và ông Lê Hồ
Việt A là cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ, khi những người này đang đứng
trước đầu xe ô tô. Ông Lê Hồ Việt A nhảy sang lề đường tránh được, còn ông
Nguyễn Anh Đ buộc phải bám vào cọng gương chiếu hậu phía trước bên trái đầu xe.
Phan Thành H tiếp tục điều khiển xe chạy với tốc độ cao, rồi bất ngờ đánh lái
mạnh về phía bên trái vào sát giải phân cách giữa đường nhằm hất ông Nguyễn Anh
Đ xuống đường để bỏ trốn. Hậu quả là ông Nguyễn Anh Đ bị rơi khỏi xe va vào
giải phân cách cứng giữa đường, rồi rơi xuống đường. Phan Thành H bỏ mặc cho
hậu quả xảy ra rồi tiếp tục điều khiển xe chạy trốn. Ông Nguyễn Anh Đ đã bị
chấn thương sọ não, gãy chân, tổn hại sức khỏe 40%.
[3] Do có hành
vi phạm tội nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phan
Thành H về tội “Giết người” và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” tội
phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 và điểm b khoản 2
Điều 267 Bộ luật Hình sự năm 1999 là có căn cứ,
đúng pháp luật.”
0 nhận xét:
Đăng nhận xét